Theo một báo cáo về sự ngược đãi trong Viện dưỡng lão của đài CBS thì người Mỹ rất sợ phải vào Nursing Homẹ. Đó là nơi cuối cùng mà bất đắc dĩ họ phải đi vào. Một cụ già 85 tuổi khi không thể sống một mình được nữa mà con cái ngại ngần khi phải mang cha mẹ về chăm sóc thì “cái gì đến, nó phải đến thôi.” Cụ Alice Oshatz bắt đầu khóc khi được hỏi cụ nghĩ sao khi cụ trở thành một người bị “phế thải” trong viện dưỡng lão.
Việc bê bối của các Viện dưỡng lão không phải là vấn đề riêng của Mỹ mà nó cũng xảy ra ở các nước khác như Canada, Úc. Viện nghiên cứu thông tin y tế Canada cũng có những công bố báo cáo cho biết, trong số những người già của Canada sống lâu dài tại viện dưỡng lão, có tới 44% mắc chứng trầm cảm, tình trạng thể chất và chất lượng cuộc sống đều không tốt đẹp.
Riêng những người già Việt Nam sống ở đất Mỹ lại càng sợ bị đưa vào viện dưỡng lão. Khi các cụ lớn tuổi thường tìm về các nơi có nhiều người Việt để ở. Họ hoặc ở chung với con cháu hay ở trong các chung cư dành cho người già với lợi tức thấp. Có cụ ở trong các khu nhà tiền chế (mobile home) và vui thú điền viên ở đó.
Nhưng khi tuổi thọ tăng cao, thì sức khoẻ các cụ xuống dần và lúc đối đầu với bệnh nặng ắt hẳn phải tới. Những cụ lo xa thường về hẳn bên Việt Nam ở, để có con cháu hay người làm chăm sóc dùm. Tuy nhiên điều kiện y tế và vệ sinh, cũng như chuyên môn không bằng. Thành ra được cái này lại mất cái kia. Hoặc chi phí y tế ở Việt Nam các cụ hay người nhà phải tự trả, trong khi ở Mỹ, nếu là công dân trên 65 tuổi hầu như các dịch vụ y tế chính phủ đài thọ gần hết.
Ở Mỹ, nếu có thì giờ nghe chuyện thì có khoảng… cả triệu câu chuyện kinh khủng để kể về viện dưỡng lão. Người nào trong đó cũng có tâm sự cần thổ lộ. Lẽ ra Viện dưỡng lão là nơi chăm sóc bệnh nhân và người già nhưng có khi bị biến thành một cái xưởng dịch vụ, nơi mà người ta được cung cấp dịch vụ nhưng nghệ thuật chăm dưỡng thì bị bỏ quên.
Sau đây là những câu chuyện kể lại của một cựu điều dưỡng viên trong một viện dưỡng lão ở Quận Cam. Ở Orange County, các viện dưỡng lão từ xưa đến nay vẫn do người bản xứ làm chủ và điều hành. Viện thường được chia làm hai khu chính là thường xuyên và bán trú, cùng nhiều khu phụ. Khu thường xuyên dành cho các cụ ở thường trực.
Khu bán trú dành cho những bệnh nhân sau khi được giải phẫu ở nhà thương, không đủ tiền lưu lại vì bệnh phí rất cao, nên phải chuyển vào nằm chờ. Khi bình phục họ sẽ về nhà. Những khu phụ như khu chuyên về phổi, suyễn, hay có khu lẫn lộn cả khuyết tật bẩm sinh. Họ có sắp các khu theo sắc tộc, như khu dành cho người da trắng, khu cho người châu Á… Nếu thiếu phòng, bệnh nhân phải nằm bất cứ khu nào còn trống.
Theo luật của tiểu bang California, mỗi viện dưỡng lão phải có đủ nhân viên săn sóc bệnh nhân, nhất là các dịch vụ khẩn cấp. Một viện có khoảng 100 giường trở lên, mỗi bệnh nhân phải được y tá săn sóc ít nhất 3,2 tiếng mỗi ngày. Thế nhưng vì nhiều việc quá, điều dưỡng viên làm không xuể, bệnh nhân có thể bị xao lãng bỏ quên.
Thường thì không ai thích làm cho viện dưỡng lão, những điều dưỡng có bằng hay có kinh nghiệm hay tìm chỗ nhẹ nhàng hơn mà làm. Do đó, các Viện dưỡng lão luôn thiếu người và họ phải tìm những người được đào tạo cấp tốc ở các trung tâm dạy nghề. Những người này đóng học phí cao hơn bình thường và chương trình giảng dạy chỉ trong vài tuần lễ, nên họ được giảng dạy qua loa để mau tốt nghiệp đi làm cho nhanh.
Vì được đào tạo cẩu thả nên các điều dưỡng viên này mất căn bản. Họ thường không theo đúng trình tự của việc chăm sóc bệnh nhân. Họ lại bị sức ép của công việc quá nhiều, nên có nhiều người mất cả đạo đức nghề nghiệp. Họ làm việc cẩu thả và dối trá. Chẳng hạn sáng sớm phải rửa mặt, tắm rửa rồi thay tã và quần áo cho bệnh nhân nhưng họ chỉ làm qua loa lấy lệ, cho xong việc. Có khi nước chưa được ấm, họ xối đại nước lạnh khiến bệnh nhân bị ướt, rét. Họ cũng có khi không thay tã theo qui định.
Người già thường có giấc ngủ trưa, điều dưỡng phải cho họ đi nghỉ trưa. Tuy nhiên, vì làm biếng họ để bệnh nhân ngủ gà ngủ gật trên xe mà không đẩy họ về phòng cho lên giường như qui định.
Lúc về già, nhiều người răng yếu hay rụng, khi được đút ăn họ ăn rất chậm. Đôi khi vì buồn phiền các cụ không muốn ăn, điều dưỡng có quá nhiều việc, lại hết giờ, không đủ kiên nhẫn, họ chỉ đút qua loa nên các cụ ốm o, gầy mòn.
Ngoài ra còn xảy ra nạn kỳ thị với bệnh nhân. Người nào ít có hay không người thân tới thăm hoặc để mắt tới thường xuyên, cơ hội bị bỏ quên rất cao. Các cụ đó có nhấn chuông mỏi tay, đòi thay tã hay giúp đỡ đều bị lờ đi đến phút chót khi điều dưỡng sắp hết ca, họ mới trở lại thay tã cho. Khi các cụ phản đối hay thưa gởi sẽ bị trả thù bằng nhiều cách mà hành hạ là một ví dụ điển hình.
Khi được đưa từ giường qua xe hay từ xe qua giường, họ bị liệng nặng tay như quăng một món đồ. Người bệnh có đau chỉ biết khóc thầm và chịu câm nín, không dám báo cáo vì càng khiếu nại càng bị trả thù dã man hơn. Có những điều dưỡng viên vì cần tiền, họ làm hai ca, thường là ca chiều và ca đêm.
Làm một ca đã mệt, khi ca kế tới, họ tìm chỗ ngủ để nghỉ. Công việc dĩ nhiên bị bê trễ, họ ngụy trang bằng cách lấy chăn mền xếp xung quanh bệnh nhân và có ai tới kiểm tra hay y tá ghé mắt đến, đều yên chí thấy mọi thứ tươm tất sạch sẽ nên bỏ đi, đâu biết rằng bệnh nhân nằm đó bên dưới đầy nước tiểu và phân.
Với những bệnh nhân hay phàn nàn đau nhức, bấm chuông hoài, có khi họ bị cho uống thuốc giả hay thuốc an thần để khỏi tiếp tục kêu ca. Có những trường hợp bệnh nhân vì bị cho vào nhà dưỡng lão nên buồn khổ quá mà trở nên lầm lẫn; hoặc đã bệnh còn tăng thêm bệnh vì kiêm thêm chứng trầm cảm.
Những người từng làm việc cho Viện dưỡng lão, những người khách đến thăm viện và quan trọng nhất là những người già sống trong viện, tất cả đều ước mơ các Viện dưỡng lão được thay đổi. Thay đổi làm sao để khi nghĩ tới, nhắc đến, nó không còn là một cơn ác mộng của tuổi già. Đường lối điều hành Viện cần phải tổ chức lại sao cho hữu hiệu.
Các y tá và điều dưỡng cần phải được cắt bớt việc. Khi ít bận rộn họ mới có thì giờ để ý và chăm sóc kỹ hơn cho các cụ. Nếu các cụ có muốn tâm sự, họ có thời giờ để lắng nghe. Mà khi các cụ có nơi để kể lể, tâm hồn sẽ phơi phới, đỡ thấy cô đơn buồn khổ nhiều. Phần tâm lý được chăm sóc, bệnh ắt hẳn thuyên giảm.
Riêng nhịp cầu thông cảm giữa người già và con cái phải được thiết lập ngay từ lúc các cụ chưa được đưa vào viện dưỡng lão. Các cụ cần sửa soạn tâm lý khi đến lúc phải vào viện dưỡng lão mà không cảm thấy quá buồn khổ. Vì càng buồn khổ thì bệnh trầm cảm sẽ làm bệnh tật thêm trầm trọng. Có nhiều cụ vì sống chung với con cái quen rồi vào đó quá bất mãn, lại cô đơn nên chửi rủa suốt ngày, chửi con cái xong quay qua chửi cả nhân viên trong viện, càng chửi càng bị ghét, càng bị bỏ bê.
Mỗi viện dưỡng lão nên có một khu vườn nhiều cây xanh để người già có cơ hội tiếp xúc với thiên nhiên, thở dưỡng khí trong lành. Giấc mơ của người già sẽ thành sự thật khi họ được ngồi trên xe lăn được chăm sóc chu đáo trong một khu vườn có chim hót líu lo. Đời sống như thế, viện dưỡng lão mới hết trở thành cơn ác mộng.
PV
Quả na rất bổ nhưng có một bộ phận cực độc nhất định phải lược bỏ khi ăn
Na là loại quả thơm ngon được nhiều người yêu thích. Tuy nhiên cần lưu ý na có một bộ phận độc hại cần lược bỏ trước khi ăn.
Na là loại quả lành tính, vị ngọt, mùi thơm được nhiều người yêu thích.
Quả na có nhiều tác dụng tuyệt vời cho sức khỏe như chữa đái tháo đường, tiêu khát, nhọt vú… Rất tốt cho người già lẫn trẻ nhỏ, người mới ốm dậy và phụ nữ sau sinh.
Tuy nhiên, trong quả na có một bộ phận cực độc, đó là hạt na. Nếu không may ăn phải có thể gây ngộ độc đường tiêu hóa.
Hạt na có chứa chất độc
Độc tố trong hạt na mạnh tới mức nếu chẳng may dính vào mắt có thể gây bỏng mắt, bỏng biểu mô giác mạc, nếu sơ cứu, chữa trị sai cách có thể gây viêm loát giác mạc, mù lòa vĩnh viễn.
Không chỉ vậy, nếu bị dính trên da, nhất là dính vào vết thương hở trên da sẽ dễ dẫn đến lở loét, viêm nhiễm nặng nề, thậm chí gây hủy hoại da.
Liên quan đến độc tố trên hạt na, các chuyên gia y tế cảnh báo, độc tố trong 1 hạt na có thể giết chết 1 con côn trùng.
Ông cha ta xưa đều dùng hạt na rang lên sau đó nấu lâý nước gội đầu cho con để tiêu diệt chấy rận, chính là chất độc từ hạt na đã phát huy tác dụng.
Tuy nhiên việc làm này rất nguy hiểm không nên dùng, vì chỉ cần sơ sẩy để nước hạt na dính vào mắt sẽ gây bỏng nghiêm trọng, tổn thương mắt của trẻ.
Bên cạnh đó, cũng đã có một nghiên cứu sử dụng hạt na để tiêu diệt côn trùng, sâu bọ chuyên đục cây.
Làm gì để tránh độc từ hạt khi ăn na?
Mặc dù hạt na rất độc, tuy nhiên, trường hợp ngộ độc chỉ xảy ra khi hạt na đã bị dập nát.
Bởi vậy, nếu khi ăn na mà bạn vô tình nuốt phải nguyên hạt thì không cần lo lắng, vì vỏ hạt na dày và cứng, dạ dày sẽ không thể làm vỡ được chúng. Hạt na sẽ thải ra ngoài theo phân.
Tuy nhiên, bạn hết sức cẩn thận khi ăn na vì nếu chẳng may cắn dập hạt na sẽ rất nguy hiểm. Đặc biệt là với trẻ nhỏ không nên để con tự ăn na, cần tách hạt ra khỏi thịt na ngay từ đầu để tránh trường hợp trẻ cắn và nuốt phải hạt na.
Những sai lầm khi ăn na mọi người dễ mắc phải
Ăn na còn ương
Trong các quả na chín 1 nửa đều có hàm lượng tannin cao. Khi kết hợp với các loại thức ăn khác, nó sẽ tạo ra một loại hợp chất loại trừ. Lúc này, hệ tiêu hóa sẽ không thực hiện nhiệm vụ tiêu hóa thức ăn được. Điều này vô tình tạo ra một khối bã thức ăn tích tụ trong dạ dày gây đầy bụng, khó tiêu, đau bụng…
Ăn quá nhiều
Na là loại quả ngọt, giàu đường. Do đó, nếu bạn ăn nhiều sẽ gây nóng trong khiến da nổi mụn, táo bón. Vì thế, bạn không nên ăn quá 2 quả na/ngày.
Ăn không nhìn
Quả na có tính ngọt lại thường chín vào mùa mưa nên rất dễ có giòi. Do đó, bạn không nên ăn quả na có vảy trắng, nhiều vết nứt nẻ, tại vết nứt có dấu hiệu chảy nước. Bởi những quả na này rất dễ bị côn trùng độc bò vào, hoặc sinh giòi ở bên trong.
Ngoài ra, những quả na có mắt thâm đen sì, vỏ cứng nhắc, vị đã ủng cũng dễ nhiễm khuẩn, gây ngộ độc nên bạn tốt nhất đừng ăn.
Người bị tiểu đường
Na có nhiều đường nên nếu bạn ăn nhiều thì sẽ khiến đường huyết tăng cao. Lâu dần, bệnh tình sẽ càng nặng. Vì thế, nếu đã bị bệnh tiểu đường thì bạn nên hạn chế hoặc tốt hơn hết là đừng ăn.